Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế biển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu tỉnh Bình Thuận
Để cụ thể hóa Nghị quyết số 09 của
Ban Chấp hành Trung ương và Chương trình hành động số 07 của Tỉnh ủy, Ủy ban
nhân dân tỉnh đã ban hành nhiều văn bản có liên quan để triển khai thực hiện[1],
đồng thời, chỉ đạo các sở, ban, ngành và ủy ban nhân dân các huyện, thị xã,
thành phố có biển xây dựng kế hoạch cụ thể để thực hiện. Bên cạnh đó, đáng chú
ý là Tỉnh ủy khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 3-11-2016, về
đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2025; tập trung đầu tư đào
tạo các nghề trọng điểm đáp ứng nhu cầu nhân lực thực hiện xây dựng Bình Thuận
thành trung tâm năng lượng, trung tâm du lịch - thể thao biển mang tầm quốc
gia; quan tâm đào tạo nghề quản trị resort bảo đảm đạt cấp độ ASEAN và các
nghề, như sửa chữa máy tàu, chế biến và bảo quản thủy sản, nuôi trồng và đánh
bắt hải sản, kỹ thuật chế biến món ăn, kỹ thuật máy lạnh và điều hòa không khí
bảo đảm đạt cấp độ quốc gia.
Nhìn lại hơn 10 năm thực hiện Nghị
quyết số 09, đến nay tỉnh Bình Thuận đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong
phát triển kinh tế biển, nổi rõ là: nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của
kinh tế biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của các cấp, các ngành,
của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng được nâng lên, tạo chuyển biến rõ
nét về nhận thức và hành động, thúc đẩy các ngành kinh tế biển phát triển
nhanh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân vùng
ven biển và hải đảo; kết cấu hạ tầng ven biển tiếp tục được quan tâm đầu tư;
các tuyến đường ven biển được nâng cấp, mở rộng; các khu dân cư, khu đô thị du
lịch ven biển được quy hoạch, xây dựng nhằm khai thác hiệu quả sử dụng đất,
thúc đẩy phát triển du lịch ven biển; hệ thống kè bảo vệ bờ biển, kết cấu hạ
tầng nghề cá và hệ thống nước sinh hoạt ven biển được chú trọng đầu tư, xây
dựng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển. Cụ thể một số lợi thế
về phát triển kinh tế biển của tỉnh Bình Thuận như sau:
Về phát triển du lịch: Với lợi thế có bờ biển
dài 192 km dọc theo bờ biển có nhiều cảnh quan đẹp, có các vịnh, bãi biển, dải
cát biển đẹp, Khu Bảo tồn biển như: Đảo Phú Quý, Cù lao Câu (Tuy Phong); Đồi
Dương, Mũi Né - Hòn Rơm, biển Hàm Tiến, Tiến Thành (Phan Thiết); Tân Thuận, Kê
Gà (Hàm Thuận Nam); Hòn Bà, Ngảnh Tam Tân (La Gi), bãi biển đẹp là lợi thế cho
phát triển du lịch biển, trong đó Mũi Né Phan Thiết là địa điểm được nhiều
người biết đến với tên gọi là thủ đô Resort của cả nước, bên cạnh đó Bình Thuận
có khí hậu, thời tiết thích hợp cho việc phát triển các loại hình, sản phẩm du
lịch biển như du lịch mạo hiểm, lặn biển, nghiên cứu các hệ động, thực vật dưới
biển, du lịch thể thao giải trí trên biển. Lượng du khách đến tỉnh tăng bình
quân 10,95%/năm, trong đó lượng du khách quốc tế tăng bình quân 12,8%/năm;
doanh thu từ du lịch tăng trưởng bình quân đạt 24,78%/năm; giải quyết việc làm
cho nhiều lao động với mức tăng bình quân 12,3%/năm. Hoạt động du lịch đã thúc
đẩy tiêu thụ tại chỗ các sản phẩm nông - lâm - thủy sản và hỗ trợ các ngành,
nghề khác cùng phát triển, góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người
dân và tăng thu ngân sách… Du lịch phát triển đã làm thay đổi bộ mặt đô thị và
nông thôn, hạ tầng đường sá, điện nước, thông tin liên lạc phục vụ du lịch biển
cũng góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân ở các vùng du lịch.
Hiện nay, tỉnh đang đẩy mạnh thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du
lịch quốc gia Mũi Né, tỉnh Bình Thuận đến năm 2030.
Về khai thác chế biển thủy sản: Bình Thuận là
tỉnh duyên hải cực Nam Trung bộ, với chiều dài bờ biển khoảng 192 km, có quần
đảo Phú Quý tiếp giáp vùng biển khơi, có tầm quan trọng chiến lược về kinh tế
và quốc phòng. Vùng biển Bình Thuận là một trong 03 ngư trường lớn nhất nước,
tạo lợi thế rất lớn để phát triển khai thác hải sản. Sản lượng hải sản khai
thác của tỉnh hằng năm nằm trong nhóm 5 tỉnh đứng đầu cả nước, vùng biển Bình
Thuận còn là ngư trường thường xuyên, quan trọng của hàng ngàn tàu cá ở các
tỉnh khác đến khai thác hàng năm. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Bình Thuận, thủy sản khai thác giữ vai trò quan trọng, đóng góp không
nhỏ cho sự tăng trưởng, cung cấp nguồn thực phẩm cho tiêu dùng và nguồn nguyên
liệu cho chế biến xuất khẩu. Để phát triển kinh tế thủy sản, tỉnh đã chú trọng
phát huy năng lực khai thác hải sản với việc đầu tư tàu thuyền công suất lớn,
khai thác xa bờ. Đến nay, toàn tỉnh có 7.054 tàu cá với tổng công suất
1.066.035CV; tàu cá có công suất từ 90CV trở lên có 3.046 chiếc (tăng 1.843
chiếc so năm 2007), trong đó có 179 tàu dịch vụ hậu cần xa bờ (năm 2007 toàn
tỉnh chưa có tàu dịch vụ hậu cần xa bờ); công suất bình quân tàu thuyền toàn
tỉnh đạt 151,12CV/chiếc, tăng 93,34CV/chiếc so với năm 2007; sản lượng khai
thác hải sản năm 2018 đạt 217.770 tấn, tăng 33% so với năm 2007. Việc khai thác
lợi thế tự nhiên vùng biển đã đưa sản xuất tôm giống trở thành thế mạnh nổi
trội của tỉnh, chiếm trên 25% lượng tôm giống sản xuất của cả nước, đáp ứng nhu
cầu nuôi tôm thương phẩm trên thị trường các tỉnh miền Trung và Nam Bộ. Đến
nay, phần lớn các doanh nghiệp chế biến thủy sản của tỉnh đã áp dụng hệ thống
quản lý chất lượng tiên tiến như HACCP, ISO; xây dựng mối liên kết chuỗi từ
khâu khai thác đến thu mua, sơ chế, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, sản
xuất nước mắm phát triển ổn định với sản lượng trong năm 2019 đạt trên 40 triệu
lít, tăng 66,2% so năm 2007.
Về phát triển năng lượng, khai
khoáng, dầu mỏ: Các ngành công nghiệp, dịch vụ khu vực biển, đảo từng bước được
đầu tư, khai thác có hiệu quả, nhất là công nghiệp năng lượng khu vực ven biển
và tại huyện đảo Phú Quý phát triển khá nhanh và đa dạng (thủy điện, nhiệt điện
than, điện đi-ê-den, điện gió và điện mặt trời) với tổng công suất đạt
3.322,5MW; sản lượng điện phát ra hằng năm khoảng 13 tỷ kWh. Ngoài ra, có
khoảng 90 dự án điện mặt trời, 19 dự án điện gió đã được chấp thuận chủ trương
khảo sát hoặc đầu tư, lập hồ sơ bổ sung quy hoạch điện, lập dự án đầu tư trên
địa bàn tỉnh. Trong vùng lãnh hải Việt Nam thuộc phạm vi tỉnh quản lý có 3 mỏ
dầu khí đã khai thác hiệu quả là mỏ Rạng Đông, Ru Bi, Sư tử Đen (sản lượng 80
nghìn thùng dầu/ngày). Công nghiệp chế biến khoáng sản ven biển từng bước được
đầu tư với 2 dự án nghiền bột zircon, với tổng công suất 15 nghìn tấn/năm và 1
dự án luyện xỉ titan công suất 24 nghìn tấn/năm đã triển khai xây dựng... góp
phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, trong đó có một số mặt hàng quan
trọng thuộc khu vực biển, đảo của tỉnh.
Về đầu tư cảng biển: Tỉnh Bình Thuận
có điều kiện thuận lợi để phát triển cảng biển, trong năm 2019 tỉnh Bình Thuận
đã khánh thành cảng biển Quốc tế Vĩnh Tân, cảng được thiết kế gồm 01 bến 3.000DWT, 02 bến 50.000DWT
và trong giai đoạn phát triển tương lai là 01 bến 70.000 DWT. Cảng đi vào hoạt
động góp phần thúc đẩy thu hút đầu tư, giải quyết nhu cầu cấp bách về vận
chuyển hàng hóa của các đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Thuận và
các khu vực lân cận, tăng ngân sách địa phương và tạo thêm nhiều việc làm cho
người lao động. Trong thời gian tới, Cảng Quốc tế Vĩnh Tân sẽ trở thành một trong
những công trình tạo điểm nhấn cho tỉnh Bình Thuận trong việc kêu
gọi xúc tiến đầu tư, kết nối vùng miền, là cửa ngõ giao thương trong nước và
quốc tế.
Có thể khẳng định rằng, thực hiện
Nghị quyết số 09 của Đảng mà hơn mười năm qua, nhiều vấn đề khó khăn, vướng mắc
liên quan đến kinh tế biển của tỉnh được giải quyết và từng bước phát triển ổn
định trên tất cả các mặt, ngành thủy sản đóng góp khoảng 6,8% GRDP của tỉnh
(nếu tính cả phần giá trị gia tăng từ chế biến thủy sản thì đạt khoảng 15%
GRDP); giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 150 triệu USD, chiếm gần 40%
tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạch đó tỉnh Bình
Thuận gặp không ít khó khăn vướng mắc như: Công tác lập quy hoạch xây dựng, quy
hoạch đô thị tại các địa phương có biển còn chậm, chất lượng đồ án chưa cao;
nguồn ngân sách lập quy hoạch chưa được bố trí kịp thời. Việc chậm ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện Luật Tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo, cụ thể là thiết lập hành lang bảo vệ bờ
biển và đường mực nước triều cao trung bình nhiều năm, đã làm ảnh hưởng đến tiến
độ đầu tư các cơ sở du lịch ven biển. Tình trạng sạt lở bờ biển ở một số khu du
lịch, khu dân cư ven biển tiếp tục xảy ra gây ảnh hưởng đến đời sống của người
dân và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; Tiến độ và giá trị đầu
tư kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, thu hút các dự án đầu
tư thứ cấp còn khó khăn. Mặc dù điện gió là một lợi thế tiềm năng sẵn có của
tỉnh, nhưng quá trình đầu tư và phát triển các dự án vẫn gặp trở ngại vì chính
sách hỗ trợ phát triển điện gió của Nhà nước chưa đủ mạnh. Trong khi đó, nguy
cơ cao về ô nhiễm, không khí, nguồn nước... từ Trung tâm nhiệt điện Vĩnh Tân
chưa được giải quyết triệt để; các hoạt động dầu khí, vận tải trên biển luôn
tiềm ẩn nguy cơ xảy ra sự cố tràn dầu; rác thải trên biển ngày càng nhiều đã
ảnh hưởng đến môi trường, hệ sinh thái biển và các ngành kinh tế khác; Việc
phát triển du lịch biển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh; kết
cấu hạ tầng phục vụ phát triển du lịch còn thiếu, nhiều nơi phát triển chưa
đồng bộ, chưa tạo thuận lợi thu hút các nhà đầu tư. Vướng mắc giữa phát triển
du lịch và khai thác quặng sa khoáng titan ven biển hoặc giữa phát triển du
lịch và phát triển kinh tế hải sản chưa được tháo gỡ. Nhiều dự án không thực
hiện được do chồng lấn quy hoạch khai thác quặng sa khoáng titan; kết cấu hạ
tầng kỹ thuật tại không ít khu vực ven biển còn thiếu (chưa có hệ thống cấp
điện, cấp và thoát nước sinh hoạt, xử lý nước thải) đã ảnh hưởng đến thu hút
đầu tư; Công tác quản lý hoạt động khai thác hải sản còn gặp khó khăn do không
đủ phương tiện, lực lượng để quản lý nên hiệu quả có phần hạn chế, dẫn đến
nguồn lợi thủy sản, nhất là các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao ngày càng
cạn kiệt do tác động của biến đổi khí hậu và hoạt động khai thác không đúng quy
định. Sự phối hợp giữa doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh tế biển và cơ
sở đào tạo chưa đồng bộ, công tác điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu học nghề
và việc làm, định hướng nghề nghiệp tại các vùng kinh tế biển chưa sát với thực
tiễn.
Kế thừa, phát huy những kết quả sau
hơn 10 năm thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là tiền đề quan
trọng để Tỉnh tiếp tục triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế
biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, mục tiêu tổng quát và tầm nhìn đến năm 2045, Bình Thuận
trở thành tỉnh phát triển kinh tế biển mạnh, bền vững, toàn diện, an ninh, an
toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế của tỉnh và trở thành
tỉnh có nền kinh tế mạnh về biển, làm giàu từ biển. Để thực hiện mục tiêu đó,
thời gian tới, Bình Thuận sẽ tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục đổi mới phương thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật,
thông tin về biển, đảo nhằm nâng cao nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của
biển và hải đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá vị thế,
tiềm năng của biển nước ta nói chung và của tỉnh Bình Thuận nói riêng, chú
trọng việc quảng bá thương hiệu sản phẩm có lợi thế của địa phương nhằm thu hút
đầu tư, phát triển thương mại, du lịch biển, đảo tại tỉnh.
Hai là, từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng ven biển và hải đảo, bao gồm
cảng biển, sân bay, đường giao thông, các tuyến luồng hàng hải, nhằm kết nối
các trung tâm phát triển ven biển với cả nước. Chú trọng đầu tư, nâng cấp các
tuyến đường phục vụ cho phát triển kinh tế biển vốn là thế mạnh của tỉnh. Tiếp
tục đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, dịch vụ hậu cần nghề cá, ưu tiên đầu tư
các khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá, cảng cá theo quy hoạch; hỗ trợ nguồn
vốn đầu tư xây dựng các công trình đê, kè bảo vệ bờ biển và trồng rừng phòng hộ
ven biển để chắn sóng, chắn cát, hạn chế biển xâm thực, thích nghi với biến đổi
khí hậu.
Ba là, liên kết chặt chẽ giữa các ngành kinh tế biển với các ngành, lĩnh
vực liên quan, như đào tạo, dạy nghề, ứng dụng khoa học - công nghệ...; gắn kết
phát triển các ngành kinh tế biển với phát triển các trung tâm kinh tế biển,
doanh nghiệp. Rà soát, điều chỉnh danh mục các dự án kêu gọi đầu tư khu vực ven
biển và hải đảo phù hợp với điều kiện của địa phương; đẩy mạnh công tác xúc
tiến đầu tư.
Bốn là, đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án điện gió, điện mặt trời, ưu
tiên kết hợp phát triển điện gió và du lịch vùng biển Tuy Phong, Hàm Tiến, Mũi
Né, Phú Quý, Kê Gà, Hàm Tân, La Gi,... đưa tỉnh Bình Thuận trở thành trung tâm
sản xuất năng lượng tái tạo và năng lượng sạch của vùng duyên hải Nam Trung Bộ.
Chủ động các nguồn lực cần thiết để sẵn sàng tham gia các dịch vụ phụ trợ cho
sản xuất năng lượng tái tạo trên địa bàn, để phát triển các ngành kinh tế biển
dựa vào khai thác tài nguyên đa dạng sinh học biển, như dược liệu biển, nuôi
trồng và chế biến rong, tảo, cỏ biển.
Năm là, đẩy nhanh tiến độ đầu tư theo quy hoạch khu du lịch quốc gia Mũi
Né, khu du lịch Phú Quý; xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển du lịch.
Giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, cảnh quan, đa dạng sinh học
vùng biển đảo, như các khu bảo tồn biển Hòn Cau, Cổ Thạch, Hòa Thắng - Hòa Phú,
Mũi Né, Kê Gà, Hòn Lan, La Gi, Phú Quý để đến năm 2030, Bình Thuận trở thành
trung tâm du lịch - thể thao biển mang tầm quốc gia.
Sáu là, để phát triển kinh tế hàng hải, tỉnh sẽ thu hút đầu tư cảng biển
Sơn Mỹ, đầu tư nâng cấp cảng vận tải Phan Thiết. Nạo vét, khơi thông luồng lạch
tại các cửa sông, cửa biển; quản lý, khai thác có hiệu quả cảng Phú Quý, Vĩnh
Tân, Phan Thiết, phát triển đội tàu vận chuyển khách từ đất liền ra huyện đảo
Phú Quý. Nâng cao năng lực đánh bắt xa bờ gắn với đẩy mạnh phát triển, đa dạng
hóa các loại hình dịch vụ hàng hải; đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho hoạt động hoa tiêu, bốc xếp hàng hóa và các dịch vụ khác
nhằm thu hút các hãng vận tải, đoàn tàu cập bến tại các cảng của tỉnh Bình
Thuận.
Tác
giả bài viết: Ngô Viết Năng
Quyết định số 1613/QĐ-UBND ngày 26/7/2010 của UBND tỉnh về
việc phê duyệt Quy hoạch phát triển kinh tế biển tỉnh Bình Thuận đến năm 2020.