Ở Việt
Nam các lễ hội dân gian gắn với nông nghiệp mà trực tiếp liên quan đến cây lúa
đã xuất hiện hàng ngàn năm qua, được nhiều dân tộc suy tôn và thực hiện, tuy
nhiên mỗi một dân tộc có một cách thức tổ chức với những nghi lễ khác nhau theo
tập tục lâu đời do các thế hệ trước lưu truyền lại. Người Kinh có lễ tế thần
Nông, người Êđê, Giarai, Cờho, Mạ gọi là lễ mừng lúa mới, người Raglai gọi là
lễ ăn lúa mới… cũng là người Cờho và Raglai nhưng định cư lâu đời ở xã Phan Sơn
và Phan Lâm huyện Bắc Bình gọi là Tết ăn đầu lúa (Nhô Vrê Rơhe). Về nội dung
thì cơ bản giống nhau, tất cả đều mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự tôn
vinh và niềm tin của họ đối với cây lúa, cầu phù hộ cho cây lúa không bị “con
ma” quấy nhiễu, không bị sâu rầy, bệnh tật để cây lúa đơm bông trổ hạt. Nhưng
khác nhau ở tính đặc thù do phụ thuộc vào môi trường sống trong tự nhiên và môi
trường xã hội, biểu hiện qua sự tiếp biến và giao lưu văn hóa với các dân tộc
khác.
Ở Bình
Thuận người Cờho và Raglai là những dân tộc bản địa định cư và sinh sống lâu
đời ở các huyện Bắc Bình, Tuy Phong, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam và một số địa
phương khác. Địa bàn cư trú chính của họ là ở phía Tây và vùng núi cao để thuận
lợi với cuộc sống du canh, du cư trước đây hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên.
Cả hai dân tộc Cờho và Raglai đều có tín ngưỡng đa thần, với quan niệm vạn vật
hữu linh, các lực lượng tự nhiên trong vũ trụ được thần thánh hóa với niềm tin
tuyệt đối bởi sự tưởng tượng và đề cao thần lúa, thần gió, thần nhà, thần núi,
thần đất, thần suối…
Từ lâu
đời, lúa là cây lương thực chính gắn liền với đời sống của các dân tộc có nền
văn minh lúa nước từ thời tiền sử, cây lúa được suy tôn và trở thành tín ngưỡng
thiêng liêng đối với họ. Riêng cây lúa rẫy (còn gọi là lúa cạn) thường được các
dân tộc thiểu số trồng trên nương rẫy, có thời gian và chu kỳ sinh trưởng lâu
ngày. Người Cờho và Raglai đến mùa gieo hạt đều chọn một khu đất cao ráo trên
núi để trồng cây lúa mẹ, đất phải hội đủ điều kiện là đất tốt, màu mỡ, đảm bảo
độ ẩm để cây lúa mẹ phát triển được, trong môi trường thời tiết nắng hạn và
phải đảm bảo các yếu tố tâm linh. Do vậy, rất nhiều lễ nghi mang nguồn gốc từ
nông nghiệp vẫn được duy trì như lễ cúng rẫy cũ, lễ phát rẫy, lễ đốt rẫy, dọn
rẫy mới. Khi trồng lúa, đặc biệt là cây lúa mẹ họ có có những nghi lễ theo chu
kỳ sinh trưởng của cây lúa như: lễ tỉa hạt, lễ cúng lúa chữa, lễ cúng lúa chín,
lễ ăn lúa mới… Lễ nghi nông nghiệp của người Cờho và Raglai có nhiều nét tương
đồng, nhưng đáng chú ý là lễ mừng lúa mới mà đồng bào tự gọi theo tục xưa là
Tết ăn đầu lúa (Nhô Vrê Rơhe). Đây là chuổi lễ nghi chính trong năm như Tết nguyên
đán của người Kinh.

Dàn nhạc trong một nghi lễ.
Lúa mẹ
chỉ được trồng trên rẫy chứ không được trồng dưới ruộng nước, thời gian sinh
trưởng, thu hoạch cây lúa mẹ là 6 tháng, giống cây lúa mẹ là loại cây lúa rẫy
hạt to, dẻo và rất thơm có từ lâu đời ở địa phương được người xưa tuyển chọn và
lưu giữ từ đời này qua đời khác. Lúa mẹ khi chín được tuốt từng chùm bằng tay
mà không được dùng liềm cắt hoặc hái như lúa con. Sau 6 tháng cây lúa mẹ ở trên
rẫy với nhiều lễ nghi và công sức chăm bón của con người, hạt lúa đã chín vàng,
đồng bào lại làm lễ cúng mừng lúa mẹ chín với lễ vật và cây nêu. Thu hoạch xong
lúa mẹ, theo phong tục người Cờho và Raglai lại thực hiện nghi thức cúng tế để
nhập lúa mẹ vào kho, sau đó các gia đình chuẩn bị đón Tết ăn đầu lúa. Đã từ
lâu, người Cờho và Raglai không biết Tết năm mới của dân tộc mình vào thời điểm
nào. Do vậy mỗi nơi tổ chức Tết năm mới của dân tộc mình vào một thời gian khác
nhau; riêng ở Bắc Bình tổ chức vào đúng rằm tháng Chạp (15/12 âm lịch), còn ở
những nơi khác tổ chức vào những tháng sau đó.
Vào khoảng
đầu tháng 12 âm lịch, không khí chuẩn bị đón mừng lúa mới đã thể hiện rõ ở từng
gia đình trong bản làng của người Cờho và Raglai. Mọi nhà đều làm rượu cần
(Bơr-rơ-nơm), mỗi gia đình ít nhất cũng phải có vài ba ché rượu cần, những nhà
khá giả có đến 10 ché rượu cần để ngoài việc cúng tế còn mời bạn bè từ các nơi
đến chia vui. Gần như cả làng đều sửa sang lại nhà cửa, kho lúa mẹ, đóng lại
sàn, vách kho, lợp lại mái tranh mới để các Yàng (thần) và thần lúa về trú ngụ
và đón tết cùng gia đình mình và làng bản.
Bên ché rượu cần trong mùa lễ hội.
Theo
các cụ già ở xã Phan Sơn, Phan Lâm thì gần nửa thế kỷ trước đây Tết ăn đầu lúa của người Cờho và Raglai diễn ra suốt trong tháng 12 âm lịch,
có khi còn kéo dài đến nửa đầu tháng giêng. Theo phong tục xưa, hễ nhà nào thu
hoạch lúa mẹ và mùa vụ xong là có thể ăn mừng lúa mới trước, nhà nào thu hoạch
mùa vụ chậm thì ăn sau, có thể ăn mừng lúa mới vào bất cứ ngày nào trong khoảng
thời gian từ tháng 12 đến nửa đầu tháng Giêng âm lịch. Vì thế, trong làng luôn
rộn ràng không khí lễ mừng lúa mới, ngày nào cũng có gia đình lên rẫy rước
Yàng, chúc tụng nhau bên ché rượu cần, từ ngày này qua ngày khác, từ nhà này
qua nhà khác rất đông vui. Các nghi thức lễ truyền thống theo tập tục trong Tết
ăn đầu lúa trước kia
cũng như hiện nay mỗi gia đình đều diễn ra trong vòng 2 ngày. Vào mùa lễ trong các
bản làng kéo dài hơn 1 tháng, nhà nào làm lễ thì cả dòng họ bạn bè hàng xóm đến
chúc tụng chia vui và cứ luân phiên diễn ra từ nhà này qua nhà khác.
Khoảng
30 năm trước, nhận thấy đời sống vật chất của người dân còn nhiều khó khăn, nếu
để thời gian vui Tết của đồng bào diễn ra theo tập tục cũ, sẽ gây ra sự lãng
phí tốn kém, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống kinh tế - xã hội. Nên chính
quyền địa phương đã vận động các già làng, các cụ cao niên và đồng bào bỏ bớt
các thủ tục lạc hậu gây tốn kém, đồng thời vẫn bảo lưu đầy đủ các nghi lễ
truyền thống của ông bà để lại. Từ đó Tết ăn đầu lúa của người Cờho và Raglai ở Bắc Bình lấy ngày
rằm tháng Chạp (15/12 âm lịch) làm ngày lễ chính. Việc làm này của chính quyền
địa phương đã đưa lại nhiều lợi ích về kinh tế, tiết kiệm được thời gian lại đảm
bảo về lễ nghi, phong tục của ông bà, nên đã được đồng bào đồng thuận hưởng ứng
thực hiện cho đến ngày nay.
Có thể
nói Tết ăn đầu lúa là một trong những lễ nghi đặc sắc của người Cờho và Raglai
còn lưu giữ đến ngày nay và còn tương đối đậm nét so với các loại lễ nghi khác.
Được hòa mình vào những ngày Tết ăn đầu lúa của đồng bào, mới hiểu được giá trị
của một loại hình văn hóa phi vật thể tồn tại lâu đời và thấy niềm đam mê, phấn
khởi và hạnh phúc của mọi người. Đặc biệt là các cụ già, trong vui Tết vẫn không
quên truyền đạt và bày vẽ cho con cháu trong gia đình, dòng họ những cách thức,
cử chỉ trong từng lễ nghi nhỏ, cả việc chỉ dẫn cách cầm cồng chiêng, cách đánh,
động tác đi tới, đi lui… với mong muốn lớp trẻ ngày nay hãy giữ gìn những lễ
nghi ấy của ông bà như một trọng trách vì đó là một phần bản sắc văn hóa của
dân tộc. Đó cũng là sắc thái văn hóa riêng biệt, độc đáo của họ, góp phần bảo
tồn nét văn hóa và nghệ thuật dân gian, đa sắc, muôn màu làm phong phú thêm kho
tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Bình Thuận.
Nguyễn Xuân Lý